Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

Nghệ thuật hát Bả trạo miền Trung - Dẫn liệu từ hát Bả trạo Nam Trung Bộ


Vĩnh Phúc

Nghệ thuật diễn xướng Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ là một trong những thể loại diễn xướng dân gian lễ nghi, tín ngưỡng, đánh dấu một nét văn hóa tâm linh của cư dân vùng duyên hải. Đó cũng là một nét văn hóa truyền thống khá độc đáo của dân tộc Việt, phản ánh sinh động đời sống tinh thần và vật chất phong phú của cư dân sông nước vùng duyên hải miền Trung... 
Hò Bả trạo ở Nam Trung bộ mang đậm tính tổng thể nguyên hợp của văn hóa dân gian, tạo thành một loại hình nghệ thuật dân gian tổng hợp bởi sự tích hợp các trò diễn dân gian, các thể loại diễn xướng truyền thống của địa phương, và nỗi trội lên hàng đầu là yếu tố âm nhạc. Do sự giao thoa và vận dụng, sử dụng đa dạng về các các làn điệu, các kiểu lối hát từ các làn điệu dân ca của nhiều vùng, miền đã kéo theo sự phong phú sáng tạo về thang âm, giai điệu trong âm nhạc của nghệ thuật Hò Bả trạo. Đó là các lối hát có nguồn gốc trong hát Tuồng truyền thống; Các làn điệu dân ca Nam Trung bộ được sử dụng trong Hò Bả trạo; Các lối hát có nguồn gốc trong âm nhạc Phật giáo…
Miền Trung, bao gồm Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ là hai vùng văn hóa âm nhạc lớn của truyền thống âm nhạc dân gian cổ truyền Trung Bộ… Ngoài đặc tính tương đồng chung về thể loại của hình thức diễn xướng dân ca, dân nhạc trong tổng thể văn hóa âm nhạc cổ truyền Việt Nam, thì mỗi tiểu vùng đều mang dấu ấn đặc trưng về thể loại, gắn với môi trường diễn xướng đặc hữu của từng tiểu vùng: Đồng bằng, Duyên hải, Trường Sơn – Tây Nguyên…chứa đựng một trữ lượng văn hóa, nghệ thuật dân gian phong phú, dồi dào, đa dạng với các loại hình diễn xướng mang yếu tố lễ nghi phong tục và lễ nghi tín ngưỡng dân gian cần được khai mở, bảo tồn và phát huy đúng hướng.
Tiểu vùng Duyên hải miền Trung, trong truyền thống, tục thờ cá Ông (cá Voi) và các vị thần biển, từ lâu đã gắn liền với lễ Cầu ngư của cư dân ở một số làng ven biển thể hiện sự thành kính, biết ơn đối với các vị thần biển, cá Voi - loài vật hiền lành và to lớn nhất biển cả, luôn giúp đỡ họ trong những lúc hiểm nguy, bão tố để đưa thuyền về bến an toàn. Nó không chỉ làm phong phú đời sống tín ngưỡng, tôn giáo mà còn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, là khát vọng hướng tới điều thiện của cư dân mưu sinh trên biển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Tục thờ các vị thần biển và lễ Cầu ngư của cư dân vùng duyên hải miền Trung hàm chứa nhiều giá trị đặc sắc về lịch sử, đoàn kết cộng đồng, giá trị đạo đức thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật và cách ứng xử nhân văn khi đối diện với thiên nhiên, đối diện với biển cả. Tục thờ cá Ông nói riêng và các lễ tục thờ Thần biển, phản ánh tín ngưỡng của người Việt và sự hội nhập văn hoá tín ngưỡng giữa văn hoá bản địa với văn hoá, tôn giáo của các nước trong khu vực, đặc biệt là văn hóa Việt - Chăm trong tục thờ cá voi và lối hát Bả trạo. Đó quá trình tích hợp các lớp văn hoá tín ngưỡng cũng như sức sống và sự vượt trội của tín ngưỡng bản địa trong tâm thức của ngư dân. Tôn giáo, tín ngưỡng ấy có sức sống mãnh liệt tồn tại trong suốt tiến trình lịch sử, gắn liền với cộng đồng cư dân duyên hải Trung bộ, mà Ngư dân, chủ thể văn hóa của lễ hội đã tạo nên sức sống nội sinh trường tồn với sự vận động và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Sức sống nội sinh ấy không chỉ thể hiện ở khát vọng ra khơi thuận buồm xuôi gió, trời yên biển lặng, tôm cá đầy khoang mà còn thể hiện đời sống tinh thần phong phú, đặc sắc, giàu giá trị nhân văn của cư dân miền duyên hải.
Nghệ thuật diễn xướng Hát Bả trạo còn gọi là Hò Bả trạo, Chèo Bả trạo, Hò Đưa linh, Hò Hầu linh… là một loại hình diễn xướng dân gian tiêu biểu, đặc sắc trong lễ hội Cầu Ngư của ngư dân duyên hải Trung Bộ, đặc biệt là khu vực Nam Trung Bộ.
 Một số địa phương vùng Bắc Trung Bộ như Cảnh Dương Quảng Bình, Cửa Tùng Quảng Trị gọi là Hò đưa linh - Chèo cạn. Các địa phương ven đầm phá, ven biển Thừa Thiên Huế vẫn gọi là Hát Bả trạo và đều gắn với lễ Cầu Ngư. Sáu tỉnh duyên hải Bắc Trung bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế vẫn tồn tại Lễ Cầu ngư trong truyền thống tín ngưỡng dân gian với tục thờ thần Biển. Tiêu biểu như ở Ngư Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa; Nhượng Bạn, Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên Hà Tĩnh; Cảnh Dương, Quảng Trạch, Quảng Bình; Cửa Tùng, Vĩnh Giang, Vĩnh Linh, Quảng Trị; Thai Dương, thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang và Phương Diên, Phú Diên, Phú Vang Thừa Thiên Huế [1]…Trong lễ Cầu Ngư loại hình diễn xướng dân gian vẫn là Hát Đưa linh -  Chèo cạn, Chèo chải (Thanh Hóa), Hát Bả trạo. 
Hò Bả trạo được quy định khá chặt chẽ về các bước hát, diễn, nhân vật, và số người. Một đội hát Bả trạo được kết cấu, tổ chức như một đội thủy thủ trên một con thuyền, gồm có nhiều thành viên với chức danh rõ ràng để chịu trách nhiệm phần công việc của mình.
Đội hình Hò Bả trạo phổ biến vẫn gồm: Tổng mũi (tổng tiền), Tổng khoang, Tổng lái và các con trạo với các mái chèo.
Trước hết là Tổng mũi (còn gọi là Tổng tiền), tức là người đứng mũi, có vai trò như chỉ huy, điều khiển cả đội thuyền. Tổng mũi là người không chỉ có giọng hát to khỏe, ấm, có sức truyền cảm, mà còn phải biết hò, hát, xướng, ngâm vịnh, nói lối và phải thuộc nhiều câu hát theo nghi thức cổ.
Thứ hai là Tổng khoang (còn gọi là Tổng thương), là người đứng ngay sau Tổng mũi để tát nước và động viên đội chèo. Tổng khoang cũng phải là người rất năng động, hoạt bát và cũng phải giỏi hát. Thỉnh thoảng, ông này cầm gàu, làm động tác tát nước trong thuyền ra ngoài.
Thứ ba là Tổng lái (còn gọi là Tổng hậu), là người phụ trách chèo lái ở cuối con thuyền. Tổng lái cũng phải là người khỏe mạnh vì phải cầm cây chèo dài nhất (dài hơn mái chèo của các bạn chèo, thường dài khoảng 1,8m - 2m). Tổng lái phải vừa hát vừa luôn làm động tác như đang chèo lái ở cuối con thuyền.
Số còn lại là các tay chèo, gọi là “bạn chèo” hoặc “con trạo”. Tùy theo yêu cầu, nếp quen ở từng địa phương mà số con trạo có từ 6, 8, 10, đến 12, 14 hoặc 16 người. Dù nhiều ít khác nhau nhưng bao giờ số con trạo cũng phải là số chẵn.
Khi tiến ra sân diễn, đội chèo đi theo hàng một, dẫn đầu là Tổng mũi, đến Tổng khoang, tiếp đó là các con trạo và Tổng lái. Cây chèo cầm dựng đứng bên tay phải, mũi chèo hướng lên trời. Đến điểm quy định trình diễn, đội chèo đi thành vòng tròn rồi tách ra 2 hàng (các con trạo mang số lẻ từ 1, 3, 5, 7... thành một hàng và các con trạo mang số chẳn từ 2, 4, 6, 8 ... thành một hàng). Đứng đầu giữa hai hàng con trạo là Tổng mũi, ở giữa là Tổng khoang và sau cùng là Tổng lái (xem sơ đồ). Đội hình chính của cuộc Hò Bả trạo là mô phỏng một con thuyền đang lướt sóng trên biển.
Sơ đồ diễn tiến đội hình Bả Trạo. Nguồn: internet
Phần điều khiển động tác múa do Tổng mũi đảm nhiệm. Khi Tổng mũi cầm sênh hướng về trước để gõ, các con trạo cúi mình về phía trước làm động tác chèo thuyền. Khi Tổng mũi cầm sênh day lui để gõ, đám bạn chèo ngã mình lui để chèo rất đồng bộ và nhịp nhàng… Động tác chèo thuyền ấy quán xuyến từ đầu đến cuối buổi diễn.
Trong lúc trình diễn, Tổng mũi nhiều lúc dừng lại để xướng hát, than, ngâm thơ, diễn trò .., các con trạo cứ theo động tác chèo thuyền đã được cách điệu và nghệ thuật hóa. Tổng khoang và Tổng lái phối hợp với Tổng mũi để trình diễn. Thỉnh thoảng, Tổng khoang cầm gàu múc nước tát ra khỏi khoang thuyền, Tổng lái cầm chèo dài để lèo lái con thuyền.
Đội hình Hò Bả trạo được sắp đặt như một con thuyền ra khơi. Kết thúc buổi diễn, Tổng mũi gõ hai tiếng sênh, các con trạo cầm cán chèo dựng chèo thẳng mũi lên cao. Khi nghe tiếng sênh tiếp thì con trạo nhập thành hàng một, cây chèo vẫn cầm dựng đứng như tư thế lúc ban đầu khi mới ra trình diễn rồi theo Tổng mũi đi khuất vào sau sân lăng. Buổi trình diễn không cần đến sân khấu mà thường trình diễn ở bãi cát ven biển hay sân trước lăng Ông.

               Bả trạo Khánh Hòa
Bả trạo Bình Thuận

Một số hình ảnh diễn xướng Hò Bả trạo ở Nam Trung bộ.
Hò Bả trạo ở Nam Trung bộ mang đậm tính tổng thể nguyên hợp của văn hóa dân gian, tạo thành một loại hình nghệ thuật dân gian tổng hợp bởi sự tích hợp các trò diễn dân gian, các thể loại diễn xướng truyền thống của địa phương. Có thể nhận thấy suốt quy trình diễn xướng từ đầu đến cuối của Hò Bả trạo trong lễ hội Cầu ngư không tách rời yếu tố âm nhạc. Vai trò âm nhạc là chủ đạo, quán xuyến, là chất men có tác dụng kết dính, chuyển tải, chuyển tiếp các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian. Do sự giao thoa và vận dụng, sử dụng đa dạng về các các làn điệu, các kiểu lối hát từ các làn điệu dân ca của nhiều vùng, miền đã kéo theo sự phong phú sáng tạo về thang âm, giai điệu trong âm nhạc của nghệ thuật Hò Bả trạo.
Hò Bả trạo sử dụng các nhạc cụ: đàn nhị, trống, kèn và sênh. Âm nhạc cùng với sự phối hợp nhịp nhàng của Tổng mũi, Tổng lái, Tổng khoang hợp theo nhịp chèo bơi, trong đó Tổng mũi là người giữ nhịp cho toàn đội. Trong khi trình diễn, ba vai Tổng là quan trọng nhất, vì phải thông thạo tất cả các lối ngâm, xướng, bạch, thán oán, vịnh, nam khách, tẩu mã, kệ, tán cùng các điệu lý, hò miền Trung. Đội nhạc giữ vai trò quan trọng trong Hò Bả trạo như giữ nhịp, đưa hơi, tạo không khí hào hứng cho người diễn cũng như khán thính giả.
Ngoài việc vận dụng có cải biên, cách tân lối kết cấu, hơi điệu trong Tuồng, Hò Bả trạo Nam Trung Bộ còn dung hợp thêm bài bản các kiểu hát Tán, Kệ… có nguồn gốc từ âm nhạc Phật giáo, cũng như một số bài ca, các lối hát của dân ca Bắc và Trung Trung Bộ nói chung, tạo nét đặc thù do sự giao thoa, tiếp biến trong truyền thống âm nhạc dân tộc cổ truyền.
Âm nhạc trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ gồm có ba mảng chính:
2.1. Các lối hát có nguồn gốc trong hát Tuồng truyền thống:
Theo sử sách, Tuồng (Hát Bội, Hát Bộ) xuất phát ở Đàng Trong từ thời Ðào Duy Từ (1572-1634) và đã trở thành một bộ môn nghệ thuật sân khấu truyền thống phổ biến, đặc biệt là ở Nam Trung bộ. Vì vậy, qua quá trình giao thoa giữa các loại hình nghệ thuật, các yếu tố của sân khấu Tuồng có trong Hò Bả trạo là điều dễ hiểu, thể hiện một cách đậm nét ở khía cạnh âm nhạc.
Hò Bả trạo Nam Trung bộ thường sử dụng các lối Nói - Hát, cũng như vận dụng nhiều làn điệu phong phú, đa dạng hơn và linh hoạt hơn như:  Lối nói Vãn, Lối nói – kể, Các lối hát Xướng - kể, Lối nói Dựng, Ngâm – Kể, Thán, Tẩu Mã, Phú, Hát Nam, Bắt Bài, Bắt Bài lệnh…
 Mặc dù các lối “Hát – Nói” trong Hò Bả Trạo sử dụng phần lớn trong hát Tuồng truyền thống, nhưng tính chất giai điệu trong các lối “Hát – Nói” đều có màu sắc thán, vãn, cầu khấn,…, kết hợp phương thức diễn: động tác “chèo” luôn gắn kết trong hầu hết các lối “Hát - Xô” gắn với nhịp điệu lao động - là đặc tính của các loại Hò, đã tạo nên sự khác biệt so với nghệ thuật Tuồng truyền thống. Tính dân gian được thể hiện ở môi trường diễn xướng tâm linh cũng đóng vai trò như là chất men, chất kết dính nhằm tạo cho các kiểu lối “Hát – Nói” trong Hò Bả Trạo mang tính khác biệt so với gốc tích của nó trong lối hát truyền thống. 
Trong số các làn điệu Tuồng sử dụng trong Hò bả trạo, hát Nam là phổ biến hơn cả. Hát Nam trong Tuồng truyền thống đưa vào Hò Bả trạo đã trở thành một dạng làn điệu mang những yếu tố khác biệt về cấu trúc ngôn ngữ, thể thơ…, tạo nên sự khác biệt so với nguyên thể của nó trong hát Tuồng truyền thống. Hát Nam đã được dân gian hóa gần với thể loại Hò với lối Hát – Xô. Ví dụ:
Hát Nam trong Chèo Ông:
 “Mịt mù/ khói tỏa/ vầng trăng
                        Gió hiu/ trước mặt/ mây giăng/ lưng trời”
Con trạo Xô:  “Hò hầu (a) Ông
Hát Nam trong Chèo Âm linh:
 “Cúi đầu giọng bái thập phương
  Hoang hồn trệ phách tìm đường siêu thăng”
Con trạo Xô:  “Hò hầu linh
Đôi khi hát Nam cũng có vế Xô trong hò khoan, hay gọi là lối xen kẽ giữa Hát Nam và Hò:
Hát Nam:
             Thái lai nhờ ngài phò hộ
             Nguyện Cô Hồn phổ độ duyên trung
             Ớ là hò khoan hò
             Trời cao, trời cao đất rộng
             Ớ là trùng muôn trùng
             Ớ là hò khoan hò
             Chim kêu núi bắc
             Ớ là hò khoan hò
             Cá vùng (ớ là vùng) biển đông
             Ớ là hò khoan hò, hò hỡi hố khoan…

Hát Nam:     Không lay thương thay cho thập loại
                               Chốn phật đài vòi vọi còn xa
          Trạo xô:      Ớ là hò khoan hò, hò hỡi hố khoan
          v.v…
(Xin xem ví dụ nhạc trong phần Phụ lục 3)
Điều đặc biệt là từ sự vận dụng tính độc đáo của nghệ thuật Tuồng truyền thống; cách sử dụng các làn điệu dân ca được các nghệ nhân tài ba phối kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn, các loại hình nghệ thuật sân khấu khác... cho nên không gian Hò Bả trạo trong lễ hội Cầu Ngư đã không còn là không gian của sân khấu tuồng diễn, mà người xem như đang tiếp cận với tổng thể nền văn hóa âm nhạc dân gian với nét đặc trưng trong di sản văn hóa từng vùng, miền của khu vực Nam Trung bộ… Đó là đặc điểm của lối hát Nam trong Hò Bả trạo.
2.2. Các làn điệu dân ca Nam Trung bộ được sử dụng trong Hò Bả trạo
Vốn ca nhạc dân gian được sử dụng trong Hò Bả trạo là các điệu hò và lý, nhưng nhiều nhất là các thể loại hò, vì hò gắn với nhịp điệu lao động khi con trạo chèo thuyền.
Lối “Kể - Xô” trong Hò Bả trạo Nam Trung Bộ là sự vận dụng các điệu hò trong dân ca. Hò được sử dụng chủ yếu là hò Kéo neo, hò Khoan… (Quảng Nam), hò Khoan, hò Giựt chì, hò Rị, hò Hụi, hò Đưa linh,… (Quảng Ngãi), hò Lơ, hò Khoan kể cá… (Ninh Thuận) v.v…
Lý thường dùng là lý Mọi, (Quảng Nam), lý Chèo đưa cá Ông (Ninh Thuận), lý Thương nhau, lý Vãi chài (Quảng Ngãi)…           
2.3. Các lối hát có nguồn gốc trong âm nhạc Phật giáo
Theo truyền thuyết, cá Ông là hiện thân của Phật Bà Quan Âm, vị Phật hiền từ, nhân ái, chuyên cứu khổ, cứu nạn mọi người. Ðức Phật Quan Âm một lần tuần du trên biển Nam Hải, cảm động trước sự chết chóc của nhân loại, vì thiên tai, bão tố nên Phật Bà đã xé mảnh cà sa của mình thành trăm mảnh, ném xuống mặt biển hóa thành đàn Cá Voi, lại ban cho thân thể to lớn và phép thần thông, để Ông có sức khỏe vạn năng và bơi lội nhanh lẹ, hầu kịp thời hộ trì cứu giúp những người bị tai nạn trên biển. Bên cạnh đó, hình thức diễn xướng chèo cạn trong Hò Bả trạo còn được dùng trong diễn xướng Hò Đưa linh thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Vì thế, sự ảnh hưởng, vận dụng của các làn điệu âm nhạc Phật giáo trong Hò Bả trạo là điều hiển nhiên.
Các điệu hát được vận dụng vào Hò Bả trạo chủ yếu là Kệ và Tán (tán trạo). Kệ và Tán trong âm nhạc Phật giáo đã được vận dụng linh hoạt, có cách tân, cải biên…cụ thể là đã dân gian hóa bằng vế Kể, vế Xô đặc trưng như các điệu hò trong dân ca. Đặc biệt, phần Xô tập thể của các con trạo đều phải nhịp nhàng, ứng với từng động tác cụ thể của múa Bả trạo.
Điệu Tán sau được mở đầu trong màn hát múa rước linh Ông:
“Lò hương nghi ngút/cảnh vật thảnh thơi
Biển Đông minh giúp đỡ nơi nơi
Thần Nam Hải oai phong lẫm lẫm
Công tế độ đáng thêu bìa gấm
Cõi vô thường còn động lòng vàng
Cảnh án diên có vạn có làng
Xin chúng đẳng chỉnh tề bái yết”…
          …
 “Chúng con một dạ kính thành
Hát hò cho rập theo đường chèo bơi”
Hò là hò hỡi lơ…”
Điệu Kệ cũng xen kẻ với vế xô:
Kệ      “Vô thượng thâm thâm vi diệu pháp”
Xô      “Nam mô a di đà phật
Kệ      “Bách thiên vạn kiếp năng tao ngộ”
Xô      “Nam mô a di đà phật
Kệ      “Ngã kim kiến văn đắt thọ trì”
Xô      “Nam mô a di đà phật
(Xin xem các ví dụ nhạc trong phần Phụ lục 3)
Như thế, các làn điệu, bài bản trong Tuồng, trong lễ nhạc Phật giáo và dân ca Nam Trung bộ đã được sử dụng trong Hò Bả trạo, nhưng không phải ở dạng nguyên thể mà có những biến đổi nhất định để phù hợp với hình thức, nội dung và tính chất của một loại hình diễn xướng nghi lễ dân gian như Hò Bả trạo.
Với đặc tính dân gian của một loại hình diễn xướng, Hò Bả trạo được lưu truyền chủ yếu bằng con đường truyền khẩu, nên đã sinh ra nhiều dị bản ở các địa phương khác nhau. Âm nhạc của Hò Bả trạo qua mỗi địa phương, qua mỗi thời kỳ, đã được thêm thắt, bổ sung, sáng tạo hoặc giản lược để phù hợp với bối cảnh xã hội, không gian và nhất là phù hợp với vốn truyền thống văn hóa dân gian cụ thể của địa phương, vùng miền.  
Hò Bả trạo vừa mang tính diễn xướng nghệ thuật dân gian vừa là nghi lễ, cho nên trang phục và đạo cụ cũng phù hợp với tính chất ấy. Theo quan sát của chúng tôi, phục trang của Hò Bả trạo khác nhau về màu sắc và kiểu dáng theo từng địa phương, thể hiện sự phong phú của nghệ thuật diễn xướng Hò Bả trạo. Tuy vậy, cũng có những điểm chung, đó là trang phục có kiểu dáng gọn gàng, màu sắc sặc sỡ, đạo cụ là những dụng cụ đời thường gần gũi với ngư dân trên những con thuyền đánh cá ngày xưa.
Thông thường, Tổng lái mặc lễ phục cổ truyền áo dài đen, quần dài trắng, khăn đóng đen (nếu là nghi lễ trang trọng) với đạo cụ là mái chèo lái dài 2 mét.
Tổng lái
Tổng mũi (Tổng tiền) ăn mặc lễ phục như tổng lái, nhưng tùy theo vùng miền, có khi lại trang phục rực rỡ như một diễn viên tuồng, cầm cặp sênh điều khiển.
Tổng mũi

          Tổng khoang mặc áo có màu sắc khác nhau theo từng địa phương, quần dài, quấn xà cạp hoặc có bo gọn gàng, tay cầm đạo cụ là gàu tát nước.
Ba Tổng: Tổng tiền, Tổng khoang và Tổng lái
Các con trạo đầu chít khăn, áo trắng, quần trắng, có quấn xà cạp, thắt lưng vải đỏ, chân đi đất, tay cầm mái chèo khoảng 1,2 mét sơn màu xanh hay trắng và thường có hình Thái cực đồ (xem hình dưới). Màu sắc trang phục còn tùy theo các vùng, nhưng cái chung là trang phục giống người lính lệ xưa, có đội nón hoặc quấn khăn…
Con Trạo

Trong vấn đề phục trang, ngoài việc tùy thuộc vào tính chất lễ nghi truyền thống của từng vùng miền, thì hiện nay với chủ trương lồng ghép giữa du lịch và di sản văn hóa, nên các địa phương thường quảng bá di sản của địa phương mình trong các lễ hội. Vì vậy, trang phục thường được cách điệu thêm, nặng về diễn xướng, mang tính “hội” nhiều hơn lễ nghi. Có địa phương, phục trang và hóa trang của các tổng và các con trạo đều mang tính chất sân khấu Tuồng, như Bả trạo Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận (xem thêm các ảnh trước).
Tóm lại, nghệ thuật diễn xướng Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ là một trong những thể loại diễn xướng dân gian lễ nghi, tín ngưỡng, đánh dấu một nét văn hóa tâm linh của cư dân vùng duyên hải. Đó cũng là một nét văn hóa truyền thống khá độc đáo của dân tộc Việt. Ngày nay, tuy lối hát này không phổ biến lắm nhưng vẫn có nhiều địa phương Nam Trung bộ tổ chức trình diễn vào các lễ hội Cầu ngư hàng năm, nhiều sáng tác văn nghệ dân gian đã phản ánh sinh động đời sống tinh thần và vật chất phong phú của cư dân sông nước vùng duyên hải miền Trung… Với những đặc điểm nghệ thuật đã nêu, thể loại Hò Bả trạo với cấu trúc, kết cấu của bản chèo đã chứa đựng đặc tố của một loại nghệ thuật tổng hợp, một vở kịch hát dân gian đặc trưng trong kho tàng di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Vĩnh Phúc
TÀI LIỆU

1. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2000), Văn hoá dân gian làng biển, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.    2. Phan Khoang (2000), Việt sử xứ Đàng trong, Nxb Văn học, Hà Nội.3. Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Nam (2004), Phong tục – Tập quán – Lễ hội Quảng Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.4. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn Học.5. Trần Văn An (2005), Di sản văn hóa văn nghệ dân gian Hội An, Nxb Trung tâm Quản Lý Bảo Tồn Di Tích Hội An.6. Trương Đình Quang (2011), “Hát Bả trạo – Hò đưa linh”, Nxb Văn hóa Dân tộc.7. Trương Đình Quang (2005), Men rượu Hồng Đào, Nxb Đà Nẵng.8. Huỳnh Ngọc Trảng (2004), Duyên hải miền Trung - Đất và người, Tạp chí Xưa & Nay, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 9.Mường Giang (2009), Tháng giêng về Phan Thiết… http://huongvebinhthuan.org10. Hoàng Phương, Hát Bả trạo - Một loại hình diễn xướng dân gian…TBKH, Viện NCAN, Học viện Âm nhạc Huế.11. Xa Văn Hùng, Sự giao thoa trong hát Bả trạo xứ Quảng, http://dised.danang.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticket...tabid=6112. Nguyễn Xuân Hương (2012), Lễ hội cầu ngư của các làng biển xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng), Tạp chí Văn hoá - Du lịch Đà Nẵng, số Xuân.

[1] Theo sử liệu, vào tháng 2 năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Ánh trong khi đang vây hãm thành Bình Thuận, thì bị thủy quân Tây Sơn từ Bình Ðịnh vào đánh đuổi. Nguyễn Ánh thua trận và bị Tây Sơn truy sát. Lúc thuyền hai bên gặp nhau tại giang khẩu Xoài Rạp, là một khúc sông Ðồng Nai giữa Gia Ðịnh và Gò Công, thì đột nhiên bảo tố nổi lên dữ dội, khiến cho tàu thuyền của hai phía bị đắm chìm rất nhiều. Ngay lúc thuyền chở Nguyễn Ánh lâm nguy, thì bỗng có một cặp cá ông nổi lên đỡ và dìu thuyền vào bờ làng Vàm Láng, tổng Kiến Phước, tỉnh Gò Công. 
Sau khi đất nước thống nhất, vua Gia Long lên ngôi năm 1802, nhớ ơn xưa đã truy phong cho cá voi, tước Nam Hải đại tướng quân, Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Ðẳng Thần, đồng thời hạ chiếu phong tặng, cho các làng xã lân cận nơi bị đắm thuyền năm xưa, trong đó có Cần Giờ (Gia Ðịnh), Kiến Phước (Gò Công), Vũng Liêm (Vĩnh Long) và ra lệnh cất đền thờ Cá Ông. Kể từ đó, vùng phía nam đèo Ngang trở vào đều thờ Ông Nam Hải…Sau khi đất nước thống nhất, vua Gia Long lên ngôi năm 1802, nhớ ơn xưa đã truy phong cho cá voi, tước Nam Hải đại tướng quân, Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Ðẳng Thần, đồng thời hạ chiếu phong tặng, cho các làng xã lân cận nơi bị đắm thuyền năm xưa, trong đó có Cần Giờ (Gia Ðịnh), Kiến Phước (Gò Công), Vũng Liêm (Vĩnh Long) và ra lệnh cất đền thờ Cá Ông. Kể từ đó, vùng phía nam đèo Ngang trở vào đều thờ Ông Nam Hải…

VIDEO: Hát Bả trạo - Lời cầu an trên biển

Không có nhận xét nào: