Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2023

Tân nhạc Việt Nam – Dẫn liệu từ báo chí, sử sách nửa sau thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX.

Phần III. Phong trào sáng tác bài hát mới Việt Nam theo phương pháp Âu Tây và một số bài hát Việt Nam đầu tiên.

Vĩnh Phúc

Tóm tắt: Phong trào sáng tác bài hát Việt theo phương pháp Âu Tây - tự sáng tác cả lời và nhạc theo lý thuyết âm nhạc phương Tây - đã nhen  nhúm từ rất sớm trong một số người Việt, trong một số lĩnh vực… Tại Nam Bộ, đầu thế kỷ XX, ngoài phong trào sáng tác bài bản mới theo lối cổ truyền trong các hội nhóm Đờn ca tài tử… là phong trào sáng tác mới được gọi nôm na là “bài Tây theo điệu Ta” để đưa vào danh mục kịch bản cùng với các bài bản truyền thống của các vở Cải lương; Trong tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo với các tôn giáo thành viên là Công giáo và Tin lành, để thuận lợi trong việc truyền đạo, các Giáo phận từ rất sớm đã “Việt hóa” Thánh ca bằng những sáng tác mới theo phương pháp Âu Tây từ những năm đầu thế kỷ XX; Tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, trong các nhóm thanh niên, nhạc công từ đầu những năm 1930 cũng đã âm thầm sáng tác, rồi dần dà công bố các sáng tác mới của mình trong phạm vi nội bộ, mang tính chất “salon” với một số ít thính giả là người mộ điệu, hoặc lồng ghép vào trong môi trường sân khấu kịch…

Từ khóa: Tân nhạc, Nhạc mới, Nhạc cải cách

Sự thay đổi quan trọng, hiệu quả nhất của văn hóa, nghệ thuật Việt Nam nằm trong giai đoạn từ 1930 – 1940, giai đoạn mà GS. Phan Ngọc nhận xét là:.. “Trong vòng 10 năm, một nhóm người ít ỏi nhờ tinh thần dân tộc đã đổi mới toàn bộ văn hóa cũ: văn học ngôn ngữ, thơ, tiểu thuyết, phê bình, nghiên cứu âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc đều hoán cải và mang hình thức mới”[1] Riêng trong lĩnh vực âm nhạc, tác giả Thụy Loan trong Lược sử âm nhạc Việt Nam đã nhận định: “Trong thời kỳ này đồng thời diễn ra quá trình tiếp thu và đồng hóa từng bước những yếu tố âm nhạc phương Tây với sự nảy sinh và phát triển của bộ phận âm nhạc mới Việt Nam”…[2]

Âm nhạc Việt Nam được cải cách muộn hơn các loại hình nghệ thuật khác như văn chương, hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Vào thập niên 1930-1940, văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ đã có một tiến bộ vượt bậc. Nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam… đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tác phẩm như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Bướm trắng… Bên cạnh nhóm Tự lực văn đoàn là các nhà văn hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nam Cao với Chí Phèo, Vũ Trọng Phụng với Giông tố, Số đỏ… Cùng với kí, tiểu thuyết là thơ. Phong trào Thơ mới xuất hiện với một loạt tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế lan Viên, Hàn Mặc Tử… khẳng định sự chuyển mình của văn học Việt Nam theo hướng hiện đại hoá, sự thay thế vẻ vang của văn học bằng chữ Quốc ngữ trong đời sống văn hoá.

Giống như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp (như tôn chỉ, mục đích nhóm Tự lực văn đoàn công bố trên Phong Hóa số 87, tháng 3/1934 mục thứ 9: “Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam”), các thanh niên Tây học thời bấy giờ lại chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây… nhưng trong đó phải thấy rằng phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn lại tác động không nhỏ đến sự hình thành dòng âm nhạc mới Việt Nam, mà bước khởi đầu là phong trào sáng tác lời Việt cho điệu Tây. Âm nhạc mới (Tân nhạc) Việt Nam hình thành không chỉ đơn thuần dựa vào sự tiếp xúc âm nhạc châu Âu qua sự truyền bá của Pháp trong giới thanh niên Tây học tại các đô thị lớn… mà phải kể đến quá trình tích hợp, tác động, tiếp biến văn hóa Đông Tây, mà sâu xa là từ việc vận động học chữ quốc ngữ, sự hình thành dòng văn học tiếng Việt, trong đó tiểu thuyết lãng mạn và thơ mới là những tác nhân đáng kể. Vì rằng, nhạc mới Việt Nam từ bước khởi đầu đa phần chỉ là thể loại ca khúc, nên yếu tố thơ mới có điều kiện, tạo điều kiện hình thành nên ca từ của ca khúc bằng yếu tố lãng mạn cũng như hiện thực.

          “Vào năm 1940 việc đặt lời Việt cho những điệu Tây về cơ bản đã hạ nhiệt. Có hai yếu tố dẫn đến sự đi xuống của trào lưu này. Thứ nhất là sự cách ly gián đoạn của Việt Nam với văn hoá đại chúng ở nước Pháp mẫu quốc do Đại chiến Thế giới II. Yếu tố còn lại là một trào lưu mạnh mẽ mới từ người Việt - sáng tác những bài hát gốc của chính mình. Việc dùng những giai điệu Tây phương đã bắc một nhịp cầu cho một hình thức ca khúc Việt Nam mới được gọi là nhạc cải cách”…[3]. “Trào lưu mạnh mẽ mới từ người Việt”… cần hiểu là đãhình thành từ trong cao trào “đặt lời Việt cho những điệu Tây” của tầng lớp thanh niên Tây học được tiếp xúc với lý thuyết âm nhạc phương Tây, đã đến lúc thấy cần thiết phải Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào âm nhạc Việt Nam như chủ trương của nhóm Tự lực Văn đoàn trong văn chương. Nhất là bấy giờ, các nước Trung Hoa, Nhật Bản cũng đã có sáng tác mới theo phương pháp Âu Tây của riêng họ, mà người Việt đã từng phải soạn thêm “lời ta theo điệu Tầu, điệu Nhật”… nên, đã như một điều kiện thuận lợi, thôi thúc những chàng trai Việt mạnh dạn sáng tác những bản nhạc mới của Việt Nam. “Trước kia ta cứ chơi: Mười bản tàu…Bình-bán, Lưu-thủy vân vân, rồi từ ngày quen với Pháp, nhờ các bản Marseillaise, Madelon, rồi gần đây, như vì chán mấy bài cũ, lại lấy mấy điệu của tài-tử chớp bóng như: J’ai deux amours, Le chant du Marin v.v… nhưng chỉ lặp đi lặp lại bản đờn của nước người đó thôi… trong thời kỳ cải cách của văn chương… tưởng cũng nên làm thế nào cho ta có âm nhạc riêng…” nhưng “không thể lấy nhạc tây làm nhạc ta”.[4]

    Phong trào sáng tác bài hát Việt theo phương pháp Âu Tây đã nhen  nhúm từ rất sớm trong một số người Việt, trong một số lĩnh vực… Tại Nam bộ vào đầu thế kỷ XX, ngoài phong trào sáng tác bài bản mới theo lối cổ truyền của Kinh lịch Trần Quang Quờn tại Vĩnh Long (1915), trong các hội nhóm Đờn ca tài tử đã có những bản như “Dạ cổ hoài lang” của Cao Văn Lầu (1918), “Phong xuy trịch liễu” (Gió thổi làm cong cây liễu), “Yến tước tranh ngôn” (Chim én và chim sẻ cãi nhau) “Đăng lâu thưởng nguyệt” (Lên lầu ngắm trăng)[5]… của Nguyễn Tri Khương (1924-1927) trong vở tuồng “Giọt lệ chung tình” của gánh hát Đồng Nữ Ban; Trong Ca Huế có “Tương tư khúc”, cũng là một bài bản mới của Bửu Bát sáng tác trong thập niên 1930… Kế tục phong trào trên,  cùng với việc soạn lời ta theo điệu Tây trong các gánh hát Cải lương là phong trào sáng tác mới được gọi nôm na là “bài Tây theo điệu Ta” để đưa vào danh mục kịch bản cùng với các bài bản truyền thống của các vở Cải lương. Tiêu biểu là nghệ sĩ Cải lương Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung), Bảy Nhiêu, Mộng Vân…với một số bài hát “Tiếng nhạn trong sương”, “Hòa duyên”, “Xin thề” (Tư Chơi) và “Hoài tình” (Bảy Nhiêu), “Thu phong nguyệt”, “Nặng tình xưa” (Mộng Vân) v.v… đã góp phần cải cách cho ngành kịch hát thời bấy giờ. Ở lĩnh vực này, Nguyễn Thụy Loan trong sách Lược sử âm nhạc Việt Nam đã có nhận xét: “Những sáng tác mới của  phong trào đờn ca tài tử cũng như của phong trào cải lương Nam bộ là một bộ phận nằm trong phong trào sáng tác âm nhạc sôi nổi vào đầu thế kỷ XX, chưa từng thấy trước đó trong lịch sử âm nhạc nước nhà. Đó là bộ phận mang phong cách âm nhạc cổ truyền dân tộc, bên cạnh bộ phận sáng tác theo phong cách nhạc châu Âu sau này sẽ trở thành điểm xuất phát của bộ phận nhạc mới trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại”.[6]
    Trong tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo với các tôn giáo thành viên là Công giáo và Tin lành, để thuận lợi trong việc truyền đạo, các Giáo phận từ rất sớm đã dịch Kinh Thánh qua chữ Quốc ngữ, sau đó là dịch Thánh ca, hoặc soạn lời Việt cho Thánh ca và cuối cùng đã “Việt hóa” Thánh ca bằng những sáng tác mới theo phương pháp Âu Tây. Cũng tại Nam kỳ vào đầu thế kỷ XX, một số sáng tác mới được xem là đầu tiên tại Việt Nam “theo phong cách nhạc châu Âu” là bài “Ca Vịnh Đức Bà”, “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”, “Kính nguyện Chúa Thánh thần”, “Thánh thể”, “Dâng Mẹ hoa”… được phổ biến trong cộng đoàn giáo dân Công giáo. Đặc biệt, bài “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” với giai điệu mang âm hưởng dân gian Nam Bộ đã trở thành bài hát giáng sinh của các giáo phận Bắc, Trung, Nam từ trước đến nay.
    Tác giả của các bài nhạc mới “Ca Vịnh Đức Bà”, “Kính nguyện Chúa Thánh thần” và hợp ca ba bè “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” là Linh mục Phaolô Đoàn Quang Đạt với bút danh Phaolô Đạt, người Lái Thiêu, Bình Dương. Được biết, các bài hát ra đời khoảng năm 1907 và được in ấn ở Tân Định Ấn Quán (Imprimerie de la Mission de Tan Dinh) vào năm 1910[7].
    

    Tại Bắc kỳ, một thầy dòng hoạt động âm nhạc rất tích cực ở Hà Nội khoảng năm 1920 là Đỗ Văn Liu cũng đã sáng tác một số bài hát như “Mừng Chúa ra đời”, “Mừng thay Chúa đã sống lại”...[8]

          Ngoài phạm vi âm nhạc Nhà thờ, trong hoạt động xã hội đương thời, nhất là trong phong trào cách mạng Việt Nam, Đinh Nhu - một thanh niên, một chiến sĩ hoạt động cách mạng, ngoài việc soạn “lời ta theo điệu tây” từ bài La Marseillaise thành bài ca có tên “Bài ca kêu gọi vô sản làm cách mạng” đã nêu ở trước, từ năm 1930 trong trại giam của thực dân Pháp là nhà tù Hỏa Lò đã sáng tác một bài hát mới Việt Nam đầu tiên mang thể loại hành khúc trên thang âm ngũ cung là bài “Cùng nhau đi Hồng binh”. Bài hành khúc được cấu trúc gọn gàng, khúc chiết theo phương pháp Âu Tây ra đời đã phổ biến rộng rãi trong các nhà tù Hỏa Lò, Côn Đảo và cả trong phong trào cách mạng từ giai đoạn tiền khởi nghĩa đến Cách mạng Tháng 8 năm 1945…[9]

    Sách “Tân nhạc Hà Nội từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - Hình thành và phát triển”,[10] cho biết trong khuynh hướng sáng tác bài hát mới về đấu tranh cách mạng thời kỳ này còn có một số tác phẩm khác như “Tam bình” của Trần Văn Úc, sáng tác tại Khám lớn Sài Gòn (1930-1931) kêu gọi công, nông, binh đoàn kết tiêu diệt kẻ thù; bài “Nội chiến cách mạng” là sáng tác tập thể của một số chiến sĩ cộng sản Nam Bộ vào năm 1930-1931… Trong đó, một bài có tên là “Tiến quân” sưu tầm tại Nghệ Tĩnh, bản in ký âm ngũ tuyến cả nhạc và lời, được phổ biến năm 1930. Qua phân tích, các tác giả xác định “chưa có đủ cơ sở để khẳng định bài ca này là một sáng tác mới”. Thực chất, đó là điệu “Đăng đàn cung” truyền thống, là một trong những bài bản âm nhạc cổ truyền được soạn lời mới, có biến đổi một vài nhịp đầu và cuối bài. “Đăng đàn cung” là điệu nhạc không thể thiếu trong danh mục diễn tấu của các dàn nhạc lễ dân gian và cung đình. Điệu “Đăng đàn cung” này rất phổ biến trong dân gian nên được soạn lời mới “lời ta điệu ta” phục vụ cho tuyên truyền đấu tranh cách mạng, lấy tên là “Tiến quân”. Vì vậy không có liên hệ nào về âm nhạc giữa bài “Tiến quân” và  bài có tên là “Đăng đàn” mà chính phủ thân Nhật chọn làm quốc ca tháng 4/1945, như các tác giả sách nghi ngờ…

Bản quốc ca Nam triều thời vua Khải Định được một số tài liệu cho là một bài bản Đại nhạc rất phổ biến thường được tấu lên khi vua xa giá hồi cung trong lễ tế Giao, tế Xã tắc ở cung đình, hoặc ban nhạc lễ ngoài dân gian, là bài “Đăng đàn cung”.

Bài bản “Đăng đàn cung” này được nhiều tài liệu cho là quốc ca triều Nguyễn với lời ca của Ưng Thiều là:

“Dậy, dậy, dậy mở mắt xem toàn châu

Đèn khai hóa rạng khắp hoàn cầu

Ngọn đường thông thương ngàn dặm, xe tàu điện, tàu nước, tàu bay

Nghề khôn khéo chạy khắp phương trời

Càng ngày văn minh càng rộng, tranh cạnh lợi quyền”…

Điệu hát truyền thống này từ trước đã được nhiều người soạn lời mới, nhưng lời ca trên không phải là của Ưng Thiều như nhiều tài liệu đã đề cập, mà chính là của Nguyễn Trung Phán, Nguyễn Trung Nghệ soạn và ký âm theo phương pháp cổ truyền, được in trong cuốn Nam âm ca xướng giáo khoa thư -   Sách dạy hát tiếng Nam (Chants d’écoliers en annamite) cho học sinh học hát với tên là “Có học mới hay”. “Sách Dạy hát tiếng Nam” là tài liệu dạy nhạc tại Huế từ năm 1925 trong các trường Pháp – Việt. Trên đầu bìa sách do Nhà in Tiếng Dân, Huế in lần thứ hai, năm 1929 có ghi: “Sách này Chánh-phủ đã duyệt y, cho phép dạy trong các trường Pháp-Việt.(Theo lời nghị-định của quan Toàn-quyền Đông-Pháp ngày 29 Juin 1925)”:

 Trích bài “Có học mới hay”:


Lời 2:

Người Nam Quốc, một giống Tiên Rồng,

Thiệt giòng giai nhân tài tử, xưa rày gọi là nước tài ba.

Nền văn hiến, nặn đúc anh hùng,

Sẵn tài thông minh trời dựng, thêm nghề học hành.

Học càng ngày càng tiến, nghề nghiệp mở rộng.

Nước càng giàu càng mạnh, nòi giống thêm vẻ vang

Điệu “Đăng đàn cung” này rất phổ biến trong dân gian, nên từ những năm 1930 đã được soạn lời mới phục vụ cho tuyên truyền đấu tranh cách mạng, lấy tên là “Tiến quân”, do nhạc sĩ Lê Quang Nghệ sưu tầm tại Nghệ Tĩnh:

… “Kìa thân thế cực xiết bao vành.

Nỗi niềm ta sao đành chịu

Mau lo liệu đoàn kết từ đây

Người binh lính, kẻ thợ, dân cày

Lợi quyền ta nay giành lại”…

Hay như bài “Mừng ngày Phật đản" của Ưng Bình Thúc Giạ, năm 1936: 

“Vui mừng gặp ngày nay mồng tám tháng tư.

 Là khánh tiết Phật Thích Ca Ngài”…

Hoặc bài “Hồng Lạc ca” của Ưng Bình Thúc Giạ, năm 1940:

“Dân Hồng Lạc mình đây đã bốn ngàn năm

Gây non nước từ trước lâu dài

Ngọn cờ Hoa Lư ngời rạng

Đinh, Lê rồi lại Lý, Trần, Lê”…

v.v…

Đã có nhiều tác giả vẫn nhầm là quốc ca triều Nguyễn và đã trích dẫn vào các tài liệu, khảo cứu của mình.[11]  Trẻ con ngày xưa cũng thường hát chơi trên điệu hát này là: “Chè xôi chuối để cúng ông bà, thịt gà rô ti, thịt vịt, tôm, cua, đậu xào” v.v. và v.v… Vì vậy, việc xác định bài “Đăng đàn cung” là quốc thiều Việt Nam có từ thời vua Khải Định đã gây ra sự nhầm lẫn kéo dài.

Trong một số bài viết, điệu nhạc “Đăng đàn cung” cũng thường được khẳng định là Quốc thiều triều Nguyễn. Ví dụ:

Nguồn:

http://nhacdantranh.blogspot.com/2013/05/ang-cung-nha-nhac-cung-inh-hue.html

        Bài trên là điệu nhạc “Đăng đàn cung” được chuyển soạn cho đàn Tranh.

Trong âm nhạc cung đình triều Nguyễn, hệ thống bài bản thuộc dàn Đại nhạc có nhóm bài bản “Đăng đàn”, đó là những điệu nhạc khác nhau, được quy định chức năng của từng điệu như sau:

- “Đăng đàn đơn” và một số điệu khác…: Tấu khi vua lạy trong các cuộc tế lễ của triều đình; “Đăng đàn kép”: Khi vua lạy tạ trong lễ tế Miếu; “Đăng đàn cung”: Tấu khi vua xa giá hồi cung trong các cuộc lễ tế Giao, tế Miếu…

“Đăng đàn cung” là điệu nhạc do kèn Bầu (kèn Dăm, kèn Bóp) diễn tấu trong dàn Đại nhạc (cổ xuy=trống, kèn). Trong các tế lễ trọng đại không dùng cho dàn Tiểu nhạc (ty trúc=dây, sáo….)

Điệu “Đăng đàn cung” cho Kèn, trích đường nét giai điệu chính:

Trong một tập sách giới thiệu quốc kỳ, quốc huy và quốc ca của Pháp và ba nước Đông Dương là “Hymnes & pavillons d'Indochine” in tại nhà in Viễn Đông của Pháp (D'Extrême Orient) tại Hà Nội tháng 12 năm 1941, hiện lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Pháp, ngoài quốc kỳ, quốc huy còn in các bản quốc ca của Pháp, Việt Nam (Annam), Campuchia (Cambodge) và Lào (Laos) theo bản ký âm ngũ tuyến.


Trích: Quốc ca Campuchia:

Trích: Quốc ca Lào:


Bài quốc ca An nam chính thức có tên là “Đăng đàn” - (Hymne National Annamite) vào thời Bảo Đại (1925 – 1945) xuất bản trong tập sách này được phỏng soạn theo điệu nhạc “Đăng đàn đơn” trong hệ thống các bài bản “Đăng đàn” của Đại nhạc chứ không phải là điệu “Đăng đàn cung”.

Bài hát kí âm theo phong cách âm nhạc phương Tây, bản in không ghi tên tác giả chuyển soạn và ký âm. (Có thể bài này mới do Nguyễn Hữu Hối ghi nhạc, Trần Như Tú phối âm, phối khí và sau đó được Nguyễn Phúc Ưng Thiều soạn lời cho học sinh hát để đón Bảo Đại từ Pháp về năm 1932).

Trong bản in, trang tổng phổ ghi là “Đăng đàn”, phần dàn nhạc được rút lại cho đàn piano với phần đệm của dàn nhạc hoàn toàn theo phong cách hòa âm công năng chiều dọc của âm nhạc châu Âu; Bài hát được soạn ở giọng Đô thứ tự nhiên, hòa âm tiến hành bằng các hợp âm năm chính I, IV, V và hợp âm phụ là II7 và VIItn… Ở trang lời ca có ghi chú: “Văn bản sáng tác cho học sinh được hát trên (trong ngày) Vạn Thọ

Bản nhạc “Đăng đàn” được ký âm theo phương pháp năm dòng kẻ, gồm nhạc và lời đã xuất bản:

Bài quốc ca An Nam in trong “Hymnes & Pavillons D’Indochine”, D'Extrême Orient, Hà Nội, 1941. Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque national de France): http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5848625d/f29.image

Trong trang in lời ca lại in là Đăng-đàn-cung (Điệu Quốc-ca) Hymne National Annamite:

Nguồn: http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5848625d/f30.image

Bản nhạc “Đăng đàn” trên phỏng soạn theo âm điệu truyền thống bài Đăng đàn đơn được Bảo Đại kế thừa từ vua cha Khải Định và chỉ cải tiến bản quốc thiều cho “hiện đại” theo phong cách phương Tây mà thôi…

Trích giai điệu “Đăng đàn đơn” trong hệ thống Đại nhạc cung đình để tiện so sánh:

Chính phủ Trần Trọng Kim do phát xít Nhật dựng lên, dù chỉ tồn tại gần 5 tháng, trong tháng 4/1945 với dự thảo kiện toàn chính phủ mới cũng đã quyết định tiếp tục lấy bài “Đăng đàn” làm quốc ca: “Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài “Đăng Đàn” là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy[12].

Một bài khác trong sách Tân nhạc Hà Nội từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - Hình thành và phát triển có đăng bản nhạc nhưng không bình luận, là bài “Thanh niên tiến lên”, nhạc của Trần Ngọc Quang, lời của Phạm Văn Xung. Đây là bài nhạc mới “Nghề cinéma” sáng tác năm 1934 được Phạm Văn Xung viết lời mới cho sinh hoạt Hướng đạo với tên là “Đường trường” và đã đăng trên báo Ngày nay năm 1938. Sau này, ông chỉ sửa đổi một số lời cho phù hợp với phong trào Thanh niên đang được cổ vũ thời bấy giờ.

          Bài “Thanh niên tiến lên” trong sách Tân nhạc Hà Nội từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - Hình thành và phát triển:

Thanh niên tiến lên

                                                     Nhạc: TRẦN NGỌC QUANG

                                                                Lời: PHẠM VĂN XUNG


Cả hai bản in đều sai với bản gốc của tác giả âm nhạc Trần Ngọc Quang: Bản in trên Ngày nay năm 1938 thiếu dấu hiệu xác định giọng ở hóa biểu; bản in trong Tân nhạc Hà Nội từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - Hình thành và phát triển  lại để dấu fa thăng trên suốt hóa biểu, xác định giọng Sol trưởng cho toàn bài… Trong bản in gốc năm 1935, từ nhịp 23 đã chuyển qua giọng Đô trưởng với dấu hiệu Fa bình trên hóa biểu…

Một số tư liệu về Trần Ngọc Quang và các sáng tác mới của ông: 

Trần Ngọc Quang, một thành viên sáng lập, một diễn viên, một tác giả sáng tác âm nhạc trong Hội kịch Bắc kỳ… được Jason Gibbs - một người Mỹ có nhiều nghiên cứu về âm nhạc Việt Nam, giới thiệu trong bài “Kịch nói, La Scène Tonkinoise (Hội kịch Bắc kỳ), và những bài hát tân nhạc Việt Nam đầu tiên” cho rằng: “Những bài hát do Trần Ngọc Quang sáng tác có thể là những sáng tác đầu tiên của một người Việt Nam bằng cách diễn đạt phương Tây, và ít nhất thì xem như những bản sớm nhất có ký âm và được xuất bản”...[13] Các bài hát mới được Trần Ngọc Quang sáng tác theo phương pháp Âu Tây từ năm 1934 cho vở kịch nói “Kịch trường vạn tuế” diễn tại nhà hát Tây, Hà Nội tháng 12 năm 1934, đã được in trong tuyển tập “Những bài hát mới” năm 1935 như “Đời tài tử”, “Bả kim tiền”, “Bạn bè đời nay”, “Lời thề”, “Nghề Cinéma”… Mặc dù sử dụng trên sân khấu kịch nói, nhưng một số bài được đã được phổ biến rộng rãi, như bài “Nghề cinéma” được tổ chức Hướng Đạo soạn lời mới với nhiều nội dung và tên khác nhau như “Đường trường”, “Luật hướng đạo”, “Thanh niên tiến lên” theo cách viết “lời ta theo điệu Tây” thời bấy giờ…

          Bản ký âm của bài “Nghề cinéma” in trong tuyển tập “Những bài hát mới” năm 1935 theo tài liệu gốc, trích, dẫn từ bài viết của Jason Gibbs:

Chép lại đầy đủ theo bản gốc trên:

        “Nghề cinéma” là một trong các bài hát mới của Trần Ngọc Quang được Hội kịch Bắc kỳ trình diễn tại nhà hát Tây, Hà Nội năm 1934 như đã nêu trên. Giai điệu bài “Nghề cinéma” sau đó trở thành bài hát Hướng đạo do Phạm Văn Xung viết lời với tên “Đường trường”. “Đường trường” được in trên báo Ngày nay số 129 ngày 24/09/1938 với lời giới thiệu rất đầy đủ về tác giả sáng tác. Bài hát trở thành một trong số những bài hát đầu tiên được in ra trong đợt vận động ủng hộ những bài nhạc cải cách năm 1938.

ĐƯỜNG TRƯỜNG

Bản in trên Ngày nay số 129, 24 tháng 9/1938 so với bản gốc của “Nghề cinema” ở trên, đã khắc in thiếu dấu fa thăng ở hóa biểu và thừa dấu rê thăng ở nhịp thứ 9 v.v…[14]

    Một bài hát mới khác của Trần Ngọc Quang viết năm 1934, cùng in trong tuyển tập năm 1935 là bài “Lời thề”, nhạc và lời được trình bày theo lối “chữ nhạc” thường thấy trong các bản ký âm giai điệu nhạc cổ truyền. Tuy nhiên “chữ nhạc” không phải là “hò - xự - xang” mà là “đồ – rê – mí”…

          Bản in nhạc và lời bài “Lời thề”:


        Phần ký âm theo phương pháp Âu Tây được vận dụng theo lối “chữ nhạc” Việt Nam là một sáng tạo thời bấy giờ. Bản in được ghi “dịp hai C” sẽ được hiểu là loại nhịp 2/2, các dấu phẩy là gạch nhịp, chữ nốt in nghiêng là móc đơn v.v…

Trích chép bản chuyển biên qua ký âm ngũ tuyến của Jason Gibbs trong bài đã dẫn, có bổ sung thêm. Bài hát được viết trên tiết điệu nhạc nhảy châu Âu là Slow fox, lời của Trần Ngọc Diệp:

Từ đầu những năm 1930, phong trào “sáng tác theo phương pháp Âu tây” - tự sáng tác cả lời và nhạc theo lý thuyết âm nhạc phương Tây - nhen nhúm trong một số nhóm thanh niên, nhạc công tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng…. Ban đầu họ tự mày mò, âm thầm sáng tác, đến năm 1937, nhóm các nhạc công, nhạc sĩ trẻ mới dần dà công bố các sáng tác mới của mình trong phạm vi nội bộ giữa các nhóm nhạc tài tử, mang tính chất “salon” với một số ít thính giả là người mộ điệu, bạn bè. Ngoài Hà Nội, với đội ngũ nhạc công trẻ được đào tạo hoặc tự học âm nhạc phương Tây như đã nói ở trước, thì các thành phố khác như Hải Phòng gồm có Lê Thương, Hoàng Quý, Hoàng Phú (Tô Vũ), Văn Cao, Đỗ Nhuận, Canh Thân, Phạm Ngữ…  Nam Định có Đặng Thế Phong, Bùi Công Kỳ, Tạ Phước, Hoàng Trọng… Huế có Nguyễn Văn Thương, Văn Giảng, Lê Quang Nhạc, Ngô Ganh, Lê Cao Phan, Lê Mộng Nguyên, Nguyễn Hữu Ba… Đà Nẵng có La Hối, Phan Huỳnh Điểu, Dương Minh Ninh, Lê Trọng Nguyễn, Trương Đình Quang… Quảng Ngãi có Vân Đông, Lâm Tô Lộc…Sài Gòn có Thái Thị Lang, Võ Đức Thu, Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê, Nguyễn Mỹ Ca, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Văn Nhơn,… là những thành viên tích cực hưởng ứng phong trào sáng tác và hoạt động âm nhạc Âu tây.

Tại Hà Nội, theo nhạc sĩ Doãn Mẫn[15], năm 1935, Lê Yên đã sáng tác một số bài hát mới đầu tiên, tiêu biểu là bài “Bẽ bàng”, “Vườn xuân”, “Một ngày vui”… Năm 1937 viết “Nghệ sĩ hành khúc”… Các sáng tác của ông thời kỳ đầu này thường được trình bày trong những lần tụ họp của nhóm bạn bè mang tính chất gia đình, cùng với Văn Chung, Doãn Mẫn để bổ sung cho nhau về kiến thức âm nhạc, trao đổi về kinh nghiệm sáng tác và tác phẩm của nhau…

        Cùng trong nhóm bạn bè với Lê Yên, Doãn Mẫn, nhạc sĩ Văn Chung thời kỳ này, năm 1935, đã sáng tác những bài hát mới đầu tiên như “Tiếng sáo chăn trâu”, năm 1936 là “Bên hồ liễu” và năm 1937 ông viết “Bóng ai qua thềm”…Bài hát đầu tiên của nhạc sĩ Doãn Mẫn được sáng tác năm 1937 là “Tiếng hát đêm thu”, có sự cộng tác của Văn Chung về lời ca, cùng năm đó có thêm “Gió thu”. Trong nhóm ba người, Văn Chung là người đầu tàu trong việc quản lý, đề xuất mọi hoạt động của nhóm. Nhóm ba người này vẫn âm thầm miệt mài sáng tác và gắn bó với hoạt động âm nhạc và công việc in ấn, xuất bản âm nhạc về sau với tên gọi là nhóm Tricéa.

        Mùa thu 1937, nhóm ba người Văn Chung, Doãn Mẫn, Lê Yên đã mạnh dạn chuẩn bị một chương trình gồm các sáng tác đầu tay của nhóm như “Trên thuyền hoa” (Văn Chung), “Vườn xuân” (Lê Yên)… để ra mắt trước công chúng tại Hội Khai trí Tiến Đức nhưng không thành, vì sự khó khăn về địa điểm trình diễn tại trụ sở hội quán…

Tại Hải Phòng, Lê Thương từ năm1936 đã sáng tác bài “Xuân năm xưa”, “Tiếng đàn đêm khuya”… Cùng năm này, ở Huế, Nguyễn Văn Thương viết bài hát mới đầu tiên là “Trên sông Hương”.

        Theo trí nhớ của nhạc sĩ Lê Thương, trong năm 1937, “vài nhạc sĩ Việt-Nam đã bắt đầu truyền bá những bài hát mới đầu tiên như Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước, Trần Ngọc Quang tại Hà Nội, Lê Thương tại Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên tại Saigon trong miền Thị Nghè, và trên đài Radio Saigon, Nguyễn Xuân Khoát và Phạm Đăng Hinh với nhóm học sinh theo học đàn,v.v…”[16]. Phạm Đăng Hinh, năm 1937 đã sáng tác bài “Đám mây hàng” trong thời gian ở Hồng Kông. Bài hát này đã được báo Ngày Nay in trong đợt công bố các bài hát cải cách vào tháng 8/1938 với lời ca của Phạm Văn Xung.

          Theo nhạc sĩ Thẩm Oánh, trong một bài viết năm 1953[17] cho rằng năm 1937 là năm phát sinh của nền ca nhạc Việt Nam. Tuy nhiên cũng chỉ là phong trào “Salon” đang thịnh hành: “Từng nửa tháng một, phái nam, nữ cấp tiến ưa chủ trương mời khách để phiếm luận văn chương bình luận thi ca hoặc hòa nhạc”. Giữa năm 1937, theo phong trào “Salon”, nhóm Thẩm Oánh thành lập một ban nhạc mà ông gọi là “ban nhạc tài tửgồm bảy, tám người tụ họp nhau hòa nhạc mua vui… lấy tên là ban đàn Myosotis (hoa lưu ly), nghĩa tiếng Anh của loài hoa này là “forget me not” (đừng quên tôi). Ban đầu, ban đàn chỉ tập và chơi các bài nhạc Tây thịnh hành thời bấy giờ, sau đó nảy ra ý tưởng tự sáng tác bài cho ban nhạc hòa đàn.

    Ban nhạc “tài tử” nhưng có đầy đủ các giọng ca và nhạc cụ, như: piano (Tô Anh Đào, học piano tại Viện Âm Nhạc Hà Nội - Institute Musical de Hanoi), guitare, guitare Hawaii (Dương Thiệu Tước), violon (Vũ Khánh, Trần Khánh Dư, Đoàn Văn An), mandolin, (Thẩm Oánh), về sau có sự tham gia: banjo và guitare Hawaii (Nguyễn Thiện Tơ), sax và cello (Nguyễn Trí Nhường).

        Dương Thiệu Tước, một thành viên quan trọng của nhóm, sau này đã trả lời phỏng vấn trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn những năm 1960 về việc bắt đầu sáng tác bài hát Việt Nam theo phương pháp Âu tây: “ Hồi cuối năm 1936, tôi và Thẩm-Oánh, trong cuộc tản bộ quanh Hồ Gươm một chiều mùa đông, có mưa phùn và gió bấc, chúng tôi bàn nhau: Ở những quốc gia gần ta như Trung-Hoa Dân-Quốc, Nhật-Bản, đều theo kịp trào lưu nhạc quốc tế, nghĩa là họ có những bản nhạc mới của họ, tại sao người Việt ta lại không có lấy một bản nhạc mới, đến nỗi phải mượn nhạc của người làm lời Việt mà hát. Thế là chúng tôi bắt đầu sáng tác” [18] Những sáng tác thời kỳ đầu của nhóm như: "Trong đêm thâu" và "Khúc yêu đương" của Thẩm Oánh, "Souvenance" (Hồi niệm) và "Joie d'aimer" (Thú yêu đương) của Dương Thiệu Tước (lời tiếng Pháp của Thẩm Bích)… Ban đàn Myosotis và các bài nhạc cải cách của nhóm, từ năm 1938 – 1940 đã được mời ra biểu diễn công khai trước công chúng Hà Nội, trên sân khấu các rạp Olympia, Majestic, Palace cho các tổ chức xã hội như Hội Ánh Sáng, Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Thể Dục Bắc Việt và hội Đông Dương Công Chức Thể Thao.

                                                (Hết phần III)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

SÁCH BÁO

- Hoàng Dương (2002) - Chủ biên, Phạm Tuyên, Hồ Quang Bình, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Tân nhạc Hà Nội từ đầu TKXX đến 1945 Hình thành và phát triển, Hội Âm nhạc Hà Nội.

- Phạm Duy (2017), Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu, Nxb Thế Giới, Hà Nội.

- Jason Gibbs (2008), Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long - Câu chuyện âm nhạc, Nguyễn Trương Quý dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội.

- Trần Trọng Kim (1969), Một cơn gió bụi (Kiến văn lục), NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn.

- Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm Nhạc, Hà Nội.

- Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

- Bách Khoa, Sài Gòn, số 159, năm 1963.

- Ngày Nay, Hà Nội, các số từ năm 1937 – 1940.

- Nhạc Tiền Chiến (1970), Nxb Kẻ Sĩ, Sài Gòn.

- Vĩnh Phúc (2011), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam qua báo chí nửa sau thế kỷ XX, Nxb Thuận Hóa, Huế.

- Tân Văn tuần báo, Sài Gòn, số 38, năm 1935.

- Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, năm 1940

- Văn Hóa Nguyệt San, số 13, Hà Nội, 1953.

INTERNET

- Hoàng Anh & BomBo (2010), Bài Thanh ca Giáng sinh VN bất hủ trên 100 năm: http://conggiao.info/bai-thanh-ca-giang-sinh-vn-bat-hu-tren-100-nam-nua-dem-mang-chua-ra-doi-d-3857-

- Bài quốc ca An Nam in trong “Hymnes & Pavillons D’Indochine”, D'Extrême Orient, Hà Nội, 1941. Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque national de France): http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5848625d/f29.image

-Nguyễn Đức Cung (2010 ), Về một bản Thánh ca Giáng sinh: https://gpbanmethuot.net/van-hoc-nghe-thuat/ve-mot-ban-thanh-ca-giang-sinh-2039.html

- Phạm Duy (2002), Khái quát về Tân nhạc Việt Nam, Nguồn: https://phamduy.com/vi/van-nghien-cuu/khai-quat-ve-tan-nhac-viet-nam/5448-thoi-ky-chuan-bi-giua-thap-nien-30.

- Jason Gibbs (2000), Spoken Theater, La Scene Tonkinoise, and the First Modern Vietnamese Songs, Asian Music 31/2 (Spring/Summer 2000), 1-34, Nguyễn Trương Quý dịch. Đã in lại trong tuyển tập “Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long”, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2008.

- Jason Gibbs (2006), Bài Tây, bài ta: Khúc dạo đầu và chuyển thể của ca khúc phổ thông Tây phương ở Việt Nam trước 1940, Nguyễn Trương Quý dịch, nguồn : http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6803&rb=0206. đăng lại  trong sách Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long - Câu chuyện âm nhạc”, Nguyễn Trương Quý dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008.

 - Hồi ký Trần Văn Khê, nguồn: https://tranvankhe1921.co/category/hoi-ky/

- http://lichsu.hodaobung.com/Bai-viet/711/nhac-phamnua-dem-mung-chua-ra-doi.aspx

- Lịch_sử_Thánh_nhạc_Công_giáo_Việt_Nam, nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/

- http://nhacdantranh.blogspot.com/2013/05/ang-cung-nha-nhac-cung-inh-hue.html.

- https://thuvien.datviet.com/nho-ve-nhac-si-le-yen.html

- Nguyễn Đình San (2016), Chuyện chưa kể về tác giả ca khúc “Cùng nhau đi Hồng binh”. Nguồn: Văn nghệ Công an Online http://vnca.cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/Chuyen-chua-ke-ve-tac-gia-ca-khuc-Cung-nhau-di-hong-binh-405624/


Chú thích chân trang:

1 Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hoá, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, tr. 104.

2  Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm Nhạc, Hà Nội, tr. 10.

3 Jason Gibbs, Bài Tây, bài ta: Khúc dạo đầu và chuyển thể của ca khúc phổ thông Tây phương ở Việt Nam trước 1940”, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6804&rb=0206, đăng lại  trong sách Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long - Câu chuyện âm nhạc”, Nguyễn Trương Quý dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008.

4 Cung Giủ Nguyên (1935), Âm nhạc nước nhà, Tân Văn, Sài Gòn, số 38, ngày 4/5, tr.15.

5  Theo Hồi ký Trần Văn Khê, nguồn: https://tranvankhe1921.co/category/hoi-ky/

6 Thụy Loan, sách đã dẫn, tr.66.

7 - Xem thêm: https://vi.wikipedia.org/wiki/Lịch_sử_Thánh_nhạc_Công_giáo_Việt_Nam;

- Hoàng Anh & BomBo (2010), Bài Thanh ca Giáng sinh VN bất hủ trên 100 năm:      http://conggiao.info/bai-thanh-ca-giang-sinh-vn-bat-hu-tren-100-nam-nua-dem-mang-chua-ra-doi-d-3857; - Nguyễn Đức Cung (2010), Về một bản Thánh ca Giáng sinh, từ:

https://gpbanmethuot.net/van-hoc-nghe-thuat/ve-mot-ban-thanh-ca-giang-sinh-2039.html

8 Hoàng Dương - Chủ biên, Phạm Tuyên, Hồ Quang Bình, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh (2002), Tân nhạc Hà Nội từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - Hình thành và phát triển, Hội Âm nhạc Hà Nội, tr.40.

9 Xem thêm: Nguyễn Đình San (2016), Chuyện chưa kể về tác giả ca khúc “Cùng nhau đi Hồng binh”. Nguồn: Văn nghệ Công an Online http://vnca.cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/Chuyen-chua-ke-ve-tac-gia-ca-khuc-Cung-nhau-di-hong-binh-405624/

10 Tân nhạc Hà Nội… Sách đã dẫn, tr.165, 166, 167.

11  Vĩnh Phúc (Bùi Ngọc Phúc), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam qua báo chí nửa sau thế kỷ XX, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2011, tr.85.

12 Trần Trọng Kim (1969), Một cơn gió bụi (Kiến văn lục), Nxb Vĩnh Sơn, Sài Gòn, tr.60.

13 Jason Gibbs (2000), Spoken Theater, La Scene Tonkinoise, and the First Modern Vietnamese Songs, Asian Music 31/2 (Spring/Summer 2000), 1-34, Nguyễn Trương Quý dịch. Đã in lại trong tuyển tập Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2008.

14 Bài “Đường trường” trong “Lược sử âm nhạc Việt Nam” của Thụy Loan (đã dẫn) cũng căn cứ vào bản in trên Ngày nay năm 1938 này.

15  Hồi ký, được ghi là viết nhân dịp nghỉ an dưỡng cùng với Ns. Lê Yên tại Đầm Vạc (Vĩnh Phú) tháng 9 năm 1989. Nguồn: https://thuvien.datviet.com/nho-ve-nhac-si-le-yen.html

16 Lê Thương (1970), Thời Tiền chiến trong Tân nhạc 1938-1946, Lời giới thiệu cho Tuyển tập Nhạc Tiền Chiến, Nxb Kẻ Sĩ, Sài Gòn.

17 Thẩm Oánh (1953), Sức tiến triển của nền Việt Nhạc, Văn Hóa Nguyệt San, số 13, Hà Nội, tr.255, 256, 257.

18 Nguiễn Ngu í (1963), Phỏng vấn giới nhạc sĩ, Bách Khoa, Sài Gòn, số 15